Hình tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt ngoài ý nghĩa tượng trưng cho sự nhẫn nhịn, lòng từ bi, tình yêu thương trải khắp nhân gian thì còn tượng trưng cho Phật pháp, dùng thần lực của nhà Phật để cứu độ chúng sinh muôn loài.
>> Tượng đồng Lê Lợi – anh hùng dân tộc, tượng đồng danh nhân Việt Nam
Ý nghĩa trọng yếu nhất của hình tượng Quan Thế Âm
Trước khi tìm hiểu về hình tượng Phật bà nghìn tay nghìn mắt, cần phải hiểu ý nghĩa trọng yếu nhất của Quan Âm Bồ tát trong đạo Phật. Khi du nhập vào nước ta, hình tượng Quan Âm Bồ tát thường được thấy với tay trái cầm bình cam lồ, tay phải cầm cành dương liễu.
Kinh Phật có câu “Nam mô thanh tịnh bình thùy dương liễu Quan Âm như lai cam lồ sái tâm nguyện”. Ở đây, “Thanh tịnh bình” là bình thanh tịnh, “thùy dương liễu” là cành dương liễu rủ xuống, “Quan Âm Như Lai cam lồ sái tâm” là nước cam lồ của đức Quan Âm rưới lên tâm. Ý nghĩa nguyên câu ấy là bình thanh tịnh đựng nước cam lồ, nhờ cành dương liễu rưới khắp làm cho cái tâm của nhân gian được mát mẻ.
Trong bình thanh tịnh chứa nước cam lồ, nước cam lồ biểu trưng cho lòng từ bi. Nước này rưới tới đâu là chan rải tình thương tới đó, làm mát mẻ êm dịu mọi khổ đau của chúng sinh. Nhưng cần hiểu rằng nước cam lồ không phải bình nào cũng đựng được, chỉ có thể chứa trong “bình thanh tịnh”. Đây là ý nghĩa rất tế nhị của Phật giáo.
Bình thanh tịnh chính là sự giữ giới của người tu hành cũng như phật tử. Ví dụ một cách dễ hiểu, người làm việc sát sinh không thể có “bình thanh tịnh”, người làm những việc phạm pháp cũng không thể có “bình thanh tịnh”. Vì thế, đức Quan Âm Bồ tát rưới nước cam lồ khắp nhân gian, không chừa một ai, không quên một ai, nhưng chỉ những người có “bình thanh tịnh”, có lòng từ bi thì mới nhận được thứ nước ngọt lành của nhà Phật.
Còn một vật nữa là cành dương liễu. Đây chính là biểu tượng của sự nhẫn nhịn. Bởi việc tu hành cũng khó khăn như đi trong cơn bão lớn. Những cành cây cứng mạnh lại dễ gãy đổ. Cành dương liễu tuy yếu mềm nhưng dẻo dai, gió chiều nào cũng thuận theo nên khó gãy. Kinh Phật cho rằng muốn đem nước cam lồ ban rải cho chúng sinh được an vui mà thiếu đức nhẫn nhục thì khó thực hiện được.
Vì vậy Quan Âm Bồ tát dùng cành dương rưới nước cam lồ, biểu trưng cho lòng nhẫn nhục nhu nhuyễn. Thiếu cành dương không rưới nước cam lồ được. Cũng vậy, có lòng từ bi mà thiếu đức nhẫn nhục thì lòng từ bi đó không lâu dài, không đem đến lợi ích viên mãn cho chúng sinh. Cho nên đức nhẫn nhục, lòng từ bi luôn đi đôi với nhau, thiếu một đức thì đức kia không thể thực hiện.
Không lay chuyển được con gái, nhà vua quá tức giận bèn ra lệnh đốt chùa, thà giết chết con chứ không cho phép con trái mệnh mình. Tương truyền trong khói lửa mịt mù, công chúa Diệu Thiện được một con hổ trắng cứu thoát, chạy tuốt sang tận Việt Nam, vào tu ở động Hương Tích (Ngày nay, chùa Hương vẫn có di tích thờ Bà chúa Ba, chính là Quan Âm Diệu Thiện).
Bấy giờ, nương theo thần thông của nhà Phật, công chúa phát thệ xuống 18 tầng địa ngục để cứu vớt vô số chúng sinh đang chìm đắm trong đau khổ. Trở về dương gian, bà tiếp tục tu luyện trong 9 năm và đã chứng đắc Phật pháp nhiệm màu. Lúc này, ở quê nhà, vua cha của bà bị bệnh nặng, các thầy thuốc đều bó tay. Công chúa Diệu Thiện lập tức trở về để cứu cha. Biết cha bị ngạ quỷ làm hại, bà khảng khái khoét mắt, xẻo thịt tay chân để hiến dâng, cứu cha thoát khỏi cái chết.
Phật tổ cảm động trước lòng thành của công chúa Ba đã độ trì cho bà thành Phật, lại ban cho bà nghìn tay nghìn mắt để cứu vớt thế gian. Trở thành Phật, đức Quan Âm Diệu Thiện trở lại giáo hóa cho cha mẹ và thần dân được tỉnh ngộ về vô lượng công đức Phật.
Tuy mang nhiều màu sắc thần thoại nhưng truyền thuyết về Quan Âm nghìn tay nghìn mắt vẫn mang đầy đủ những ý nghĩa của việc tu Phật. Là một vị công chúa được vua cha yêu quý muốn truyền ngôi, bà đáng ra sẽ được hưởng mọi lạc thú của thế gian. Nhưng tâm Phật đã cảm hóa, khiến bà muốn được tu hành, giữ giới.
Ở giai đoạn đầu, khi vua cha dùng đủ mọi thủ đoạn để đày đọa, bà vẫn an nhiên không hề sờn lòng tu tập. Tiếp đó, khi vua cha muốn hại chết con, Phật pháp đã ra tay cứu vớt để bà được sống. Thời điểm này, với sự nhẫn tâm của vua cha, tình cha con hay hiểu rộng hơn là mối liên hệ với cõi người của công chúa Ba đã hoàn toàn chấm dứt.
Tuy nhiên, bà vẫn phát thệ đi xuống 18 tầng địa ngục để cứu vớt chúng sinh. Cuối cùng, thử thách khó khăn nhất của quá trình tu hành chính là cơn bệnh nặng của vua cha. Với một người cha đã nhẫn tâm muốn hại chết mình, thời điểm này, bà hoàn toàn có thể lựa chọn cách bỏ mặc. Nhưng một lần nữa, tâm Phật lại chiến thắng. Từ phương xa, bà trở về, sẵn sàng khoét mặt, chặt tay chân để cứu sống người đã định hại chết mình. Được độ thành Phật bà lại có cả nghìn tay nghìn mắt cứu vớt chúng sinh, đó phải chăng là chính quả của con đường tu hành gian nan trong cõi người.
Hình tượng thuần Việt của đức Phật bà
Hình tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt mang trên mình rất nhiều phép thuật. Ngoài hai bàn tay giữ ấn quyết nhà Phật, các tay còn lại của Phật bà đều cầm những pháp bảo để thuần hóa quỷ dữ hoặc cứu vớt chúng sinh. Có thể ví dụ như: cây gậy hành hương, mũi tên, mặt trăng, hoa sen, bình cam lồ, nhành dương liễu, mây ngũ sắc, kiếm, hoa sen trắng, sọ người, gương soi, chùm nho, cây kích, kinh văn, thủ ấn, đinh ba, tràng hạt, thiên cung, phất trần, thiền trượng, cung tên, hoa sen đỏ…
Trong tín ngưỡng dân gian, Phật bà nghìn tay nghìn mắt vừa hiền hòa vừa uy nghi, thiện nam thiện nữ gặp bà thì hoan hỉ; kẻ bất lương, quỷ sứ ma quái gặp bà thì sợ hãi.
Trong quan niệm của đạo Phật, con số một nghìn biểu trưng cho sự viên mãn, nên hình tượng của Phật bà cũng có đủ nghìn tay nghìn mắt. Về tổng thể, trong các đền chùa, Phật bà thường được tạo tác với 40 tay lớn và 960 tay nhỏ, trong mỗi lòng bàn tay đều có một con mắt.
Kinh Phật giải thích rằng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt chính là “lục căn diệu dụng”, còn có ý nghĩa là tri và hành hợp nhất.
Hiểu một cách đơn giản, Phật bà có bao nhiêu bàn tay là có bấy nhiêu con mắt; có biết là có làm, có làm là có biết. Nếu chỉ có một trăm tay nhưng có tới nghìn mắt thì chỉ là biểu hiện cho việc biết nhiều làm ít, không lợi ích gì cho chúng sinh.
Ngược lại, nếu có nghìn tay nhưng chỉ trăm mắt thì làm nhiều, làm một cách nhiệt tình, nhưng do không biết đầy đủ nên đem lại tổn hại cho chúng sinh.
Giáo lý nhà Phật đã thể hiện một cách sinh động và đầy hiện thực con đường tu hành thông qua hình tượng Phật bà này. Nếu đi đúng con đường ấy thì khả năng làm lợi ích an lạc cho chúng sinh là rất lớn.
Trong một số tạo tác ở chùa chiền Việt Nam, một lần nữa lại thấy sự kết hợp chỉ có ở nước ta, mang tính chất thuần Việt. Đó là sự kết hợp của hai biểu tượng: Quan Âm nghìn tay nghìn mắt và Thập nhất Diện Quan Âm. Trong hình tượng này, có 3 tầng tạo tác. Quan Âm nghìn tay nghìn mắt ngự trên tòa sen, tay cầm ấn quyết và nhiều pháp bảo như bình thường.
Ở phần đầu của Phật bà, sẽ thấy hình ảnh của Thập nhất Diện Quan Âm. 11 khuôn mặt kể cả khuôn mặt chính (hướng về phía trước) đều có những biểu cảm khác nhau: trang nghiêm, dũng mãnh, uy hùng, đượm buồn, mừng vui…
Điều này thể hiện thần thông của Phật bà, tùy từng đối tượng là phật tử hay quỷ dữ, tùy chuyện buồn hay chuyện vui mà thị hiện với nhiều trạng thái khác nhau. Phía trên cùng của Phật bà còn có tượng A Di Đà, biểu thị sự tôn kính Phật tổ, dù thần thông quảng đại những vẫn hành động theo sự điều chỉnh của Phật pháp.
Tựu trung lại, toàn bộ tạo tác đức Quan Âm này làm nên 3 tầng, tượng trưng cho tổng thể pháp lực, có công năng diệu dụng phá tan ba chướng: nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng. Kinh Phật quan niệm đây chính là đường lối chính để giải tỏa khổ ải cho kiếp nhân gian.
Như vậy, sự hợp nhất giữa hình tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm và Thập Nhất Diện Quan Âm (trong công năng tiêu trừ ba chướng) đã thể hiện đầy đủ sức sáng tạo văn hóa tinh tế của người Việt trong tín ngưỡng.
Một bài học đầy tình người nhưng rất trí tuệ đã được đạo Phật dạy dỗ thông qua hình tượng của vị Phật bà này. Có nghìn tay để làm và cũng phải có nghìn mắt để “biết”. Đạo lý từ ngàn xưa đó trải qua bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử nhưng vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay. Đó là con người cần phải “biết” và “làm” (có nghĩa là tri phải đi đôi với hành).
Trong bất cứ một lĩnh vực nào của đời sống, có “biết” thì mới làm tốt, không “biết” mà cứ cố làm sẽ chỉ khiến cho mọi việc trở nên phức tạp. Điều này thiết thực hơn “nói” và “làm” và càng lợi ích hơn nói thì hay nhưng lại không làm gì cả.
Nguồn: Sưu tầm